Friday, February 7, 2014

Những thành tựu trong y học năm 2013

1. Con đường dẫn tới chấm dứt bệnh AIDS: một em bé sơ sinh đã được chữa khỏi HIV 
Tại Trung tâm Y khoa trường ĐH Mississippi, một em bé được sinh ra bởi người mẹ nhiễm HIV, sau 2 năm đã không còn virus, em bé đã được chữa khỏi HIV. Em bé có dấu hiệu nhiễm HIV sau sinh, nhưng có khả năng loại bỏ virus nhờ phối hợp 3 loại thuốc chống HIV mà bác sỹ thường sử dụng để điều trị cho trẻ lớn hơn và người lớn. TS. Hannah Gay và các đồng nghiệp của bà cho cả người mẹ dương tính với HIV và em bé mới sinh một liều thuốc chống virus Retrovir trong quá trình sinh để ngăn chặn truyền virus từ mẹ sang con. Dù chỉ là thử vận may, nhưng kết quả thật hiệu nghiệm. Virus đã không quay trở lại, kể cả sau khi đứa trẻ ngưng dùng thuốc.
Nghiên cứu mới đây cho thấy rằng đến 60% HIV có thể nằm im lìm ở các cá nhân bị nhiễm hơn là người ta tưởng. Lượng virus nằm yên này có thể gây mầm nhiễm mới và gây ra các triệu chứng mới. Nhưng trường hợp em bé ở Mississippi đã dấy lên hy vọng rằng nếu các bác sỹ can thiệp sớm đủ sau nhiễm HIV, có cơ hội để chặn đứng căn bệnh này.
2. Công nghệ tế bào gốc cừu Dolly 
Mất 17 năm và một vụ xì-căng-đan liên quan tới gian lận khoa học và biển thủ, nhưng các nhà khoa học cuối cùng đã hoàn thành với các tế bào con người mà một nhà khoa học từ lâu đã làm với việc nhân bản một con cừu cái. Sử dụng tế bào da người, Shoukhrat Mitalipov, một giáo sư tại Đại học Khoa học & Sức khoẻ Oregon, đã áp dụng cùng quy trình, được biết đến như chuyển đổi hạt nhân, đã sản sinh ra cừu Dolly vào năm 1996, loài động vật nhân bản đầu tiên trên thế giới. Một cố gắng trước đây của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc hoá ra là gian lận khi thông tin tiết lộ đội ngũ đã sử dụng phôi được tạo ra bởi thụ tinh nhân tạo thay vì chuyển đổi nhân để tạo ra cái gọi là nhân bản người.
Mitalipov đã cấy thành công một tế bào da đã phát triển đầy đủ vào một trứng người rỗng và kích thích điện và hoá học để trứng bắt đầu phân chia để sản sinh các tế bào gốc phôi thai. Các tế bào gốc là nền tảng tế bào cho toàn bộ các mô và bộ phận của cơ thể, hy vọng rằng một ngày nào đó họ có thể sử dụng để điều trị các bệnh từ Alzheimer cho đến bệnh tim và tiểu đường.
3. Thuốc “vi khuẩn”
Ruột non của chúng ta có chứa những vi khuẩn có lợi, chúng giúp tiêu hoá thức ăn và bảo vệ chống lại các vi khuẩn gây bệnh. Một lượng vi khuẩn hợp lý có thể giúp đẩy lùi Clostridium, một mầm hoạ gây ra bệnh dịch tại các bệnh viện và có thể gây ra ỉa chảy và viêm ruột dẫn đến tử vong. Gói một cộng đồng vi khuẩn vào trong một viên thuốc là một ý tưởng tuyệt vời của TS. Thomas Louie, ĐH Calgary. Trong số 27 bệnh nhân đã thử nghiệm viên con nhộng dạng gen, không ai bị tái phát nhiễm Clostridium. Họ cũng thích cách thức uống thuốc thuận tiện này hơn là thông ruột.
4. Biến trứng có chất lượng xấu thành trứng khoẻ mạnh
Trứng có chất lượng xấu là nguyên nhân khó thụ thai. Nhưng các nhà khoa học tại ĐH Stanford đã phát triển một kỹ thuật giúp phụ nữ có buồng trứng hoạt động không hiệu quả có thể sản sinh ra trứng trưởng thành khoẻ mạnh. Tiến trình này được gọi là kích hoạt trong ống nghiệm, liên quan tới việc lấy một trứng hay một mô buồng trứng và nuôi cấy trong phòng thí nghiệm bằng protein và các nhân tố khác giúp cho các nang chưa trưởng thành phát triển thành trứng. Mô được nuôi cấy sau đó được ghép trở lại gần ống dẫn trứng. Cho tới nay, 27 phụ nữ tình nguyện thử kỹ thuật này, 5 người đã sản sinh ra trứng có thể sống
được, một người khác mang thai, còn một người nữa đã sinh con khoẻ mạnh.

5. Một liều vaccin thay vì 3 là đủ để ngừa HPV
Vaccin HPV là một trong những cách tốt nhất để chống lại ung thư cổ tử cung, nhưng chỉ có khoảng một nửa số bé gái và bé trai tuổi 11-12 đã hoàn thành cả 3 mũi tiêm. May thay, nghiên cứu gần đây từ một nhóm quốc tế đã tạo ra một liều vaccin duy nhất có thể tạo ra lượng kháng thể cao gấp 24 lần so với trước đó sau khi nhiễm virus, thử nghiệm trên một nhóm phụ nữ ở Costa Rica. Kết quả này cho thấy một liều vaccin có thể là đủ để phòng ngừa HPV.
6. Gene mới gắn với bệnh Alzheimer
Khoảng 10 gen mới được phát hiện có gắn với các dạnh Alzheimer phổ biến, góp phần nâng tổng số gen gắn với căn bệnh này lên 24. Những gen mới có liên quan tới phản ứng miễn dịch và viêm nhiễm của cơ thể, đều gắn với những thay đổi não liên quan tới Alzheimer. Với các nhân tố gen mới này, các nhà nghiên cứu sẽ nhắm tới các loại thuốc có thể điều trị các triệu chứng mất trí nhớ do rối loạn não.

7. Phát hiện sớm bệnh Parkinson:
Các nhà khoa học giờ đây khẳng định rằng các bệnh thoái hoá thần kinh thông thường như Alzheimer và Parkinson, có thể được điều trị tốt hơn nếu có thể phát hiện bệnh và can thiệp điều trị sớm. Chẳng hạn như, vào thời điểm những triệu chứng đầu tiên của bệnh Parkinson xuất hiện, như run ngón tay hay run môi, mất khả năng khứu giác hay biểu lộ khuôn mặt cứng đờ- những tổn thương não và hệ thống thần kinh điều khiển cử động cơ.
Nhưng trong một báo cáo chỉ số sinh học chỉ điểm bệnh Parkinson, các nhà nghiên cứu cho biết một mẩu protein trong tuỷ sống có thể giúp nhận diện bệnh nhân ở các giai đoạn đầu của bệnh. Các nhà nghiên cứu hy vọng phát hiện này có thể mở ra nghiên cứu mới nhằm thử nghiệm khả năng thuốc đã không có tác dụng ở bệnh nhân tiến triển nặng có thể hiệu quả hơn trong khống chế các triệu chứng ở giai đoạn đầu của bệnh.
8. Thay đổi mới đối với điều trị cholesterol
Hướng dẫn cholesterol mới do Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ và trường ĐH Tim mạch Hoa Kỳ đưa ra dựa vào vô số nhân tố gây ra bệnh tim- cộng với mức độ cholesterol cao, và cách tốt nhất để điều trị bệnh. Nếu bạn chưa từng có tiền sử mắc bệnh tim, có nghĩa là một cách tính mới, tính đến các nhân tố tuổi tác, giới, tiền sử hút thuốc, tiểu đường, huyết áp và mức cholesterol có thể giúp bạn và bác sỹ quyết định xem bạn có nên dùng Statin, thuốc hạ cholesterol giúp bạn ngăn ngừa cơn đau tim.
9. Thiết bị thử thai đầu tiên tại nhà

Thiết bị thử thai tiên tiến Clearblue ước lượng tuần là thiết bị đầu tiên được Cơ quan quản lý dược và thực phẩm Hoa Kỳ phê chuẩn không chỉ phát hiện có thai mà còn đo được đã có thai được bao nhiêu lâu kể từ thời gian rụng trứng. Thiết bị thử thai này đo lượng hormone-  chorionic gonadotropin báo hiệu có thai để ước tính.


thuoc chua benh soi than

0 comments:

Post a Comment